liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:11th-century_Buddhist_Pancaraksa_manuscript_of_8th-century_original,_Pali_script,_text_on_spells,_benefits_and_goddess_rituals.jpg|nhỏ|Bản thảo Phật giáo Pancaraksa thế kỷ 11 bằng chữ Pāla. Đây là văn bản thể loại dharani về phép thuật, ơn huệ và nghi lễ nữ thần.
Dharani (tiếng Phạn: धारणी, tiếng Hán: 陀羅尼, phiên âm: đà-la-ni) là một thuật ngữ trong Phật giáo, chỉ các đoạn chú văn có khả năng giữ gìn, che chở chân lý và thiện pháp. Dharani có liên hệ chặt chẽ với thần chú (mantra), nhưng thường dài hơn và mang nội dung sâu rộng hơn, được xem như một phương tiện để ghi nhớ và thực hành giáo pháp.
Khái niệm
Từ "dharani" bắt nguồn từ động từ Phạn "dhṛ" (giữ, mang), có nghĩa là "cái giữ gìn" hay "cái bảo hộ". Dharani được xem như những công thức có khả năng gìn giữ trí nhớ, củng cố niềm tin và bảo vệ người hành trì khỏi tà ma hoặc các nguy hại.
Trong văn hóa Phật giáo Đông Á, dharani được phiên âm, chép bằng chữ Hán mà không dịch nghĩa, do tính chất thần bí và thiêng liêng. Dharani có thể được tụng niệm, sao chép, in ấn, mang theo người như một vật hộ thân, hoặc đặt trong tháp, tượng Phật như một hình thức tích phúc.
Vai trò trong Phật giáo
Dharani xuất hiện trong nhiều kinh điển Đại thừa như Kinh Kim Quang Minh, Kinh Đại Bảo Tích, Kinh Dược Sư, và nhiều bản kinh mật giáo. Trong Mật tông, dharani được xem là một phần thiết yếu trong pháp tu, cùng với các nghi quỹ và hình tượng hộ pháp.
Dharani không chỉ có tác dụng hộ trì mà còn giúp hành giả đạt định lực, tăng cường trí tuệ và chuyển hóa tâm thức. Nhiều truyền thống Phật giáo tin rằng việc tụng niệm dharani đúng pháp có thể mang lại công đức lớn lao và sự bảo hộ từ chư Phật, Bồ tát.
👁️
11 | ⌚2025-09-03 20:58:28.584
Mua hàng tại Shopee giảm thêm 30%

liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:11th-century_Buddhist_Pancaraksa_manuscript_of_8th-century_original,_Pali_script,_text_on_spells,_benefits_and_goddess_rituals.jpg|nhỏ|Bản thảo Phật giáo Pancaraksa thế kỷ 11 bằng chữ Pāla. Đây là văn bản thể loại dharani về phép thuật, ơn huệ và nghi lễ nữ thần. **Dharani** (tiếng Phạn: धारणी, tiếng Hán: 陀羅尼,
Thần Chú Trong Phật Giáo Mở đầu, Giáo sư Lê Tự Hỷ nói khái quát về thần chú và thần chú trong Phật giáo. Ông cho biết Thần chú có nguồn gốc từ Kinh Vệ
thumb|Chú đại bi được khắc trên bia. Đền Phật Đảnh Sơn Triều Thánh Tự ở thị trấn Tam Nghĩa, Đài Loan. Được dựng vào tháng 6 năm 2005. **Chú Đại Bi** đề cập đến lời
**Hư Không Tạng** (आकाशगर्भ, Ākāśagarbha) là một vị bồ tát được thờ phụng trong Phật giáo Trung Quốc, Hàn Quốc và Nhật Bản, hình tượng của ông được gắn liền với đại chủng (**') của
**Huyền Trang** (chữ Hán: 玄奘; bính âm: _Xuán Zàng_; khoảng 602–664), hay **Huyền Tráng**, tục danh **Trần Huy** (陳禕), cũng thường được gọi là **Đường Tam Tạng** (唐三藏) hay **Đường Tăng** (唐僧), là một cao
nhỏ|phải|Tượng Phật ở [[chùa Long Sơn (Nha Trang)|chùa Long Sơn Nha Trang, dựng năm 1963. Pho tượng này có đặc điểm là khuôn mặt của Đức Phật được tạc theo nét mặt người Việt]] **Phật
**Kinh điển Phật giáo** có số lượng cực kỳ lớn, thậm chí xưa lấy 84.000 để ước chừng tượng trưng về số lượng pháp uẩn. Kinh văn Phật giáo truyền miệng hoặc được viết ở
nhỏ|Bức ảnh này trích trong một chương về [[Ấn Độ trong cuốn _Câu chuyện về các quốc gia của Hutchison_, mô tả Ajatashatru đến thăm Đức Phật để giác ngộ tội lỗi của mình.]] **Phật
Mạn-đà-la **Mật Tông** (zh. 密宗 _mì-zōng_) là từ gốc Hán dùng để gọi pháp môn bắt nguồn từ sự kết hợp giữa Ấn Độ giáo và Phật giáo Đại thừa, được hình thành vào khoảng
**Quán Thế Âm** (Tiếng Phạn: अवलोकितेश्वर nghĩa là "Đấng quán chiếu âm thanh của thế gian") là một vị Bồ-tát hiện thân cho lòng từ bi của tất cả chư Phật. Được miêu tả trong
thế=Tôn tượng Phật Mẫu Chuẩn Đề an vị tại Chùa Khánh Đức - huyện Chương Mỹ, Hà Nội|nhỏ|Tôn tượng Phật Mẫu Chuẩn Đề an vị tại Chùa Khánh Đức - huyện Chương Mỹ, Hà Nội
thumb|Tháp gian hàng _Bu Yeong Dang_ hay [[Phù dung đường (부용당, 芙蓉堂) được phục dựng năm 2003.]] **Haeju** () (Hán-Việt: **Hải Châu**) là một thành phố tại Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên,
**Thời kỳ Nara** (tiếng Nhật: 奈良時代 |_Nara-jidai_, _Nại Lương thời đại_) của lịch sử Nhật Bản kéo dài từ năm 710 đến năm 794. Thiên hoàng Gemmei (元明天皇 _Gemmei Tennō_, _Nguyên Minh Thiên Hoàng_) đặt
**Pāli** (𑀧𑀸𑀮𑀺) còn gọi là **Nam Phạn**, là một ngôn ngữ thuộc nhóm Ấn-Arya Trung cổ hay prakrit. Nam Phạn là ngôn ngữ kinh điển của Phật giáo Nguyên Thủy, dùng trong việc chép kinh
**_Eumyias albicaudatus_** là một loài chim trong họ Muscicapidae. ## Hình ảnh Tập tin:NilgiriFlycatcher PrasadBR.jpg Tập tin:Nilgiri Flycatcher by Dharani Prakash.jpg Tập tin:MuscicapaAlbicaudataJerdon.jpg Tập tin:EumyiasAlbicaudataEgg.jpg
**_Dumetia hyperythra_** là một loài chim trong họ Timaliidae. ## Hình ảnh Tập tin:Tawny-bellied Babbler foraging.jpg Tập tin:Tawny-bellied Babbler (Dumetia hyperythra) W IMG 9233.jpg Tập tin:Tawny-bellied Babbler (Dumetia hyperythra) by Dharani Prakash.jpg Tập tin:Tawny-bellied
**Đại bàng má trắng** (tên khoa học: **_Aquila fasciata_**) là một loài chim trong họ Accipitridae. Loài này sinh sản ở Nam Âu, châu Phi cả phía bắc và phía nam của sa mạc Sahara
**Mārīcī ** (tiếng Phạn: मारीची; tiếng Trung: 摩利支天; tiếng Việt: Ma Lợi Chi Thiên; tiếng Nhật: _Marishiten_) là một vị thiên chúng Phật giáo (deva), cũng như một Bồ Tát liên quan đến ánh sáng
liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:The_Taoist_deity_Doumu._Dehua_porcelain._Qing,_1700-1800._Asian_Art_Museum.jpg|nhỏ|Tượng sứ Đẩu Mẫu thời [[nhà Thanh, có niên đại khoảng năm 1700–1800.]] **Đẩu Mẫu nguyên quân** (), cũng thường được biết đến dưới tên **Đấu Mỗ nguyên quân** (, trong đó "Mỗ" cũng có
nhỏ|phải|Biểu tượng của chú Lăng Nghiêm **Chú Lăng Nghiêm** (_Śūraṅgama mantra_/楞嚴咒) là một trường Thần chú (Đhāraṇī/_Đà-La-Ni_) của Phật giáo ở khu vực Đông Á. Mặc dù tương đối ít được biết đến trong vùng
nhỏ|phải|Cổ vật Phật giáo về ngọc Như ý bảo châu **Như ý bảo châu** (tiếng Phạn: चिन्तामणि/_Cintāmaṇi_; tiếng Trung Quốc: 如意寶珠/_Rúyì bǎozhū_) là một viên ngọc ước nguyện mọi sự toàn thành, có hình dáng
phải|nhỏ|314x314px|Một [[Tì-kheo|nhà sư Trung Á đang giảng cho một nhà sư Trung Hoa. Hang động Bezeklik, thế kỷ 9–10; mặc dù Albert von Le Coq (1913) cho rằng nhà sư tóc đỏ, mắt xanh là